Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam, mã: PVN) cho biết doanh nghiệp này đang tập trung nghiên cứu ứng dụng, tiếp cận các công nghệ mới trong chuỗi sản xuất, vận chuyển, lưu trữ và sử dụng hydrogen để sẵn sàng tham gia sản xuất, kinh doanh hydrogen khi thị trường có đủ điều kiện.
Với lợi thế về mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng trong phát triển hydrogen xanh, PVN đã tham gia vào quá trình hoạch định các chiến lược, chính sách để tạo khung pháp lý cần thiết cho việc phát triển hydrogen.
Bằng chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ dài hạn, PVN tập trung nghiên cứu ứng dụng, tiếp cận các công nghệ mới trong chuỗi sản xuất, vận chuyển, lưu trữ và sử dụng hydrogen để sẵn sàng tham gia sản xuất, kinh doanh hydrogen khi thị trường có đủ điều kiện.
Hiện các đơn vị thành viên của tập đoàn như Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (Mã: BSR), Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSRP), Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo – Mã: DPM) và CTCP Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC – Mã: DCM) đã có kinh nghiệm trong sản xuất hydro xám.
Bên cạnh đó, Petrovietnam có hệ thống đường ống vận chuyển và phân phối, các kho chứa, cửa hàng kinh doanh xăng dầu và kinh nghiệm vận hành hệ thống khí tự nhiên hoàn toàn có thể được chuyển đổi để ứng dụng cho lĩnh vực hydrogen.
Về sử dụng hydrogen, các nhà máy lọc hóa dầu cũng như các nhà máy sản xuất phân đạm của Petrovietnam là những khách hàng trực tiếp sử dụng nguồn hydrogen xanh để thay thế từng bước nguồn hydro xám hiện nay.
Ngoài ra, Petrovietnam và đơn vị thành viên là Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC – Mã: PVS) đang triển khai các dự án điện gió ngoài khơi nhằm tạo tiền đề phát triển hydrogen xanh.
Tiềm năng về hydrogen rất lớn
PVN cho biết kế hoạch này được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam sẽ đẩy mạnh phát triển sản xuất năng lượng hydrogen và các nhiên liệu có nguồn gốc hydrogen tại các khu vực có tiềm năng, lợi thế về năng lượng tái tạo, gần với khách hàng tiêu thụ lớn.
Với đặc điểm hàm lượng phát thải carbon bằng 0 và hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao, việc sản xuất hydrogen xanh từ điện gió ngoài khơi là giải pháp tối ưu đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng trong chuyển dịch năng lượng. Đây cũng là một trong những giải pháp mà Việt Nam hướng đến để đạt mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050.
Theo Dự thảo Chiến lược về sản xuất năng lượng hydrogen đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 mà Bộ Công Thương đang lấy ý kiến rộng rãi, Việt Nam sẽ đẩy mạnh phát triển sản xuất năng lượng hydrogen và các nhiên liệu có nguồn gốc hydrogen tại các khu vực có tiềm năng, lợi thế về năng lượng tái tạo, gần với khách hàng tiêu thụ lớn để hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng hydrogen đồng bộ từ sản xuất đến tồn trữ, vận chuyển, phân phối và sử dụng hydrogen.
Việt Nam phấn đấu sản lượng hydrogen sản xuất từ các quá trình sử dụng năng lượng tái tạo để sản xuất hydrogen xanh; quá trình khác có thu giữ carbon đạt 100.000 – 500.000 tấn vào năm 2030 và định hướng khoảng 10 – 20 triệu tấn vào năm 2050.
Dự thảo cũng đề xuất định hướng phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng hydrogen bao gồm sản xuất, sử dụng và cơ sở hạ tầng tồn trữ, vận chuyển và phân phối hydrogen, trong đó phấn đấu công suất hydrogen sản xuất từ quá trình sử dụng năng lượng tái tạo và các quá trình khác đạt khoảng 100 – 500 nghìn tấn/năm vào năm 2030; định hướng đến năm 2050 đẩy mạnh triển khai áp dụng và làm chủ công nghệ tiên tiến sản xuất, sử dụng năng lượng hydrogen xanh tại Việt Nam.
Theo Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), cho đến năm 2025, chi phí sản xuất hydrogen sạch (bao gồm hydrogen lam và hydrogen xanh) vẫn rất cao. Vì vậy, để hydrogen sạch có thể phát triển và dần hoàn thiện tại Việt Nam, việc thực thi các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ là cần thiết nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của các nguồn hydrogen sạch.
Đơn vị này kiến nghị chính sách hỗ trợ cho phát triển hydrogen cần theo hướng giảm rủi ro với nhà đầu tư từ việc đưa hydrogen vào quy hoạch năng lượng quốc gia để tạo ra khung cơ sở pháp lý và danh mục ưu tiên cho các dự án phát triển hydrogen và các lĩnh vực liên quan; thực thi các chính sách thuế suất ưu đãi; phát triển các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy định an toàn, đảm bảo phát triển đồng bộ chuỗi giá trị hydrogen.
Bên cạnh đó, chính sách cần tạo ra nhu cầu sử dụng hydrogen trong nền kinh tế quốc gia như: Hỗ trợ tài chính với các dự án phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển chuỗi giá trị hydrogen; áp dụng thuế CO2 để tăng sức cạnh tranh cho hydrogen sạch…